Quy định về “Chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp” theo Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi
2025/07/24
- Tran Thanh Phuong Thao
Hiện nay, Bộ Tài chính đang soạn thảo Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi nhằm sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Doanh nghiệp 2020 hiện hành (sau đây gọi là “Dự thảo”). So với Luật Doanh nghiệp 2020 (“LDN 2020”), Dự thảo đưa ra nhiều thay đổi đáng chú ý, trong đó nổi bật là các quy định về “Chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp” (“CSHHL”) – một khái niệm còn tương đối mới tại Việt Nam nhưng đóng vai trò quan trọng trong việc minh bạch hóa cấu trúc sở hữu doanh nghiệp, phòng, chống các hành vi rửa tiền và trốn thuế. Trong phạm vi báo cáo này, chúng tôi sẽ phân tích một số nội dung mới của Dự thảo liên quan đến CSHHL, qua đó hỗ trợ các doanh nghiệp hiểu rõ CSHHL và chuẩn bị cho các nghĩa vụ pháp lý liên quan đến chủ thể này.
1. Khái niệm CSHHL của doanh nghiệp
Dự thảo đã bổ sung các khái niệm nhằm xác định rõ CSHHL của doanh nghiệp có tư cách pháp nhân chẳng hạn như công ty TNHH và công ty cổ phần[1]. Về bản chất, quy định này nhằm xác định cá nhân có quyền chi phối doanh nghiệp để làm cơ sở xác lập các nghĩa vụ tương ứng. Đối với doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân (như doanh nghiệp tư nhân), chủ doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình[2], không có sự tách biệt tài sản với chủ sở hữu nên không áp dụng quy định này. Theo đó, CSHHL của doanh nghiệp có tư cách pháp nhân là cá nhân có một trong ba tiêu chí sau:
a) Thực tế nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp sở hữu từ 25% vốn điều lệ trở lên của doanh nghiệp;
b) Trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng hơn 25% cổ tức hoặc lợi nhuận của doanh nghiệp;
c) Cá nhân cuối cùng có “quyền chi phối doanh nghiệp”. Trong đó, “quyền chi phối doanh nghiệp” là việc cá nhân, tổ chức hoặc nhóm cá nhân, tổ chức chi phối hoạt động của doanh nghiệp thông qua sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông của doanh nghiệp đó; trực tiếp hoặc gián tiếp quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm đa số hoặc tất cả thành viên hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc của doanh nghiệp; quyết định sửa đổi, bổ sung điều lệ của doanh nghiệp; hoặc quyết định các vấn đề quan trọng trong hoạt động kinh doanh được quy định trong điều lệ doanh nghiệp đó.[3]
Các tiêu chí nêu trên nhằm nhận diện và kiểm soát cá nhân thực sự hưởng lợi và chi phối hoạt động doanh nghiệp hay là những “ông chủ” thực sự của doanh nghiệp, qua đó bảo đảm tính minh bạch, trách nhiệm và phòng ngừa hành vi gian lận, rửa tiền, cũng như lạm dụng pháp nhân để trốn tránh nghĩa vụ pháp lý.
2. Ý nghĩa của việc quy định về CSHHL của doanh nghiệp
Thực tế tại Việt Nam và nhiều quốc gia khác, đã có những trường hợp cá nhân dùng danh nghĩa người khác để đứng tên góp vốn, mua cổ phần nhằm “núp bóng sở hữu”, che giấu quyền kiểm soát doanh nghiệp, từ đó dễ dàng thực hiện các hành vi rửa tiền, trốn thuế, hoặc chuyển lợi bất hợp pháp. Do đó, việc bổ sung quy định về CSHHL sẽ giúp cơ quan quản lý sẽ có cơ sở để theo dõi, kiểm tra và minh bạch hóa quyền lợi và trách nhiệm của những người thực sự kiểm soát và hưởng lợi từ hoạt động của doanh nghiệp, giúp ngăn chặn những hành vi gian lận nêu trên góp phần xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh và bền vững.
3. Một số quy định mới liên quan đến CSHHL của doanh nghiệp
3.1. Nghĩa vụ của doanh nghiệp
a) Thu thập, cập nhật, lưu trữ thông tin về CSHHL
Dự thảo đã bổ sung nghĩa vụ của doanh nghiệp trong việc thu thập, cập nhật, lưu trữ thông tin như sau:
(i) Thực hiện đầy đủ, kịp thời nghĩa vụ thu thập, cập nhật, lưu trữ thông tin về CSHHL;
(ii) Chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của thông tin về CSHHL;
(iii) Lưu giữ các tài liệu, thông tin về CSHHL của doanh nghiệp tại trụ sở chính hoặc địa điểm khác được quy định trong Điều lệ công ty. Thông tin về tất cả các CSHHL phải được lưu trữ trong suốt quá trình hoạt động.[4]
b) Thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh
Thứ nhất, tại thời điểm thành lập: Doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh thông tin về CSHHL. Trường hợp doanh nghiệp không có CSHHL tại thời điểm thành lập thì doanh nghiệp phải thông báo kịp thời thông tin trong thời hạn 10 ngày kể từ thời điểm phát sinh thông tin về CSHHL.
Thứ hai, khi có sự thay đổi thông tin CSHHL: Doanh nghiệp phải thông báo với Cơ quan đăng ký kinh doanh.[5] Đối với các doanh nghiệp được thành lập trước thời điểm Dự thảo có hiệu lực thì việc kê khai bổ sung thông tin CSHHL doanh nghiệp được thực hiện đồng thời tại thời điểm doanh nghiệp tiến hành thủ tục đăng ký thay đổi nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc thủ tục thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp.[6]
Các quy định nêu trên góp phần nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc minh bạch hóa sở hữu, ngăn ngừa hành vi núp bóng sở hữu vốn, trốn tránh nghĩa vụ pháp lý và tài chính. Việc lưu trữ thông tin nhất quán cũng tạo thuận lợi cho các cơ quan nhà nước trong quá trình kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp.
3.2. Nghĩa vụ đối với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Dự thảo cũng đặt ra nghĩa vụ đối với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp như sau:
(i) Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho doanh nghiệp về doanh nghiệp mà mình, người có liên quan của mình[7] làm chủ hoặc là CSHHL, có cổ phần, phần vốn góp theo quy định của LDN 2020;
(ii) Cung cấp chính xác, đầy đủ các thông tin về CSHHL của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và hợp tác với cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu để xác định CSHHL của doanh nghiệp;[8]
(iii) Trường hợp doanh nghiệp giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động, người đại diện theo pháp luật phải có trách nhiệm lưu trữ các thông tin về CSHHL ít nhất 05 năm kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định giải thể, phá sản chấm dứt hoạt động doanh nghiệp.[9]
Việc ràng buộc trách nhiệm cá nhân của người đại diện theo pháp luật giúp đảm bảo tính trung thực, đầy đủ của thông tin về CSHHL, đồng thời tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm hoặc che giấu thông tin có liên quan đến CSHHL.
3.3. Trách nhiệm của CSHHL
CSHHL của doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp chính xác, đầy đủ các thông tin của mình cho doanh nghiệp để thực hiện nghĩa vụ kê khai thông tin về CSHHL theo quy định của pháp luật.[10] Quy định này góp phần giúp doanh nghiệp thực hiện đúng nghĩa vụ báo cáo và đảm bảo tính minh bạch về quyền kiểm soát, góp phần hạn chế rủi ro pháp lý và tài chính trong hoạt động kinh doanh.
3.4. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong quản lý, giám sát thông tin của CSHHL
Các cơ quan nhà nước có quyền tiếp cận thông tin về CSHHL được lưu trữ tại Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Cụ thể, cơ quan đăng ký kinh doanh có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
(i) Yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về việc tuân thủ quy định của LDN 2020, báo cáo, cung cấp thông tin nhằm phục vụ việc xác minh, đối chiếu thông tin về CSHHL khi xét thấy cần thiết; đôn đốc việc thực hiện nghĩa vụ báo cáo của doanh nghiệp;
(ii) Lưu trữ thông tin về CSHHL của doanh nghiệp ít nhất 05 năm kể từ ngày doanh nghiệp giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động.
Quy định này nhằm tăng cường vai trò giám sát của cơ quan nhà nước, bảo đảm tính hiệu lực thực thi của pháp luật về minh bạch sở hữu, đồng thời tạo cơ chế phối hợp xử lý khi có dấu hiệu vi phạm.
Tóm lại, Dự thảo đã làm rõ khái niệm liên quan đến CSHHL, góp phần thúc đẩy minh bạch trong quản trị doanh nghiệp. Các quy định mới đã phân định rõ trách nhiệm giữa doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật và CSHHL. Khi Dự thảo được thông qua, các bên cần chủ động nắm bắt và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nhằm bảo đảm tuân thủ pháp luật, hạn chế rủi ro vi phạm và vận hành doanh nghiệp một cách hiệu quả.
Văn bản tham khảo:
Luật Doanh nghiệp 2020;
Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi.[11]
[1] Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015 và Điều 46, 74, 111, 177 LDN 2020.
[2] Khoản 1 Điều 188 LDN 2020.
[3] Điểm d, khoản 2, Điều 1 của Dự thảo, sửa đổi bổ sung khoản 37, 38 LDN 2020.
[4] Khoản 3, 4 Điều 1 của Dự thảo, sửa đổi bổ sung khoản 2, 3 Điều 8 và khoản 2, Điều 11 LDN 2020.
[5] Điểm a, khoản 11 Điều 1 của Dự thảo, bổ sung điểm c, khoản 1 Điều 31 LDN 2020.
[6] Điểm c, khoản 11 Điều 1 của Dự thảo, bổ sung khoản 6 Điều 31 LDN 2020.
[7] Khoản 23, Điều 4 LDN 2020.
[8] Khoản 5 Điều 1 của Dự thảo, sửa đổi bổ sung điểm c, d khoản 1 Điều 13 LDN 2020.
[9] Khoản 11 Điều 1 của Dự thảo, sửa đổi bổ sung khoản 6 Điều 31 LDN 2020.
[10] Khoản 6 Điều 1 của Dự thảo, bổ sung khoản 4 Điều 15 LDN 2020.
[11] Xem tại link: https://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/chi-dao-dieu-hanh.aspx?ItemID=4783